Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

Nghịch lý không thể ưng ý!



Mặc dầu vậy, tuyên bố trên rõ ràng chưa thể khiến dư luận an lòng. Bởi giải thích như thế đồng nghĩa với việc khẳng định một thực tiễn: Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam lâu nay đã tách ra khỏi mặt bằng giá thế giới và trở thành nguồn cung cấp rẻ nhất. Giá xuất khẩu thấp đã khiến hạt gạo Việt Nam mất vị thế và sức cạnh tranh, và đặc biệt là lượng xuất khẩu nhiều nhưng giá trị thu về không cao. Tuy là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế giới (từng có thời điểm đứng vị trí đầu), song kim ngạch xuất khẩu gạo của nước ta lại không bằng so với các nước xuất khẩu ít hơn. Giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn giá gạo của Ấn Độ và Pakistan, dù chất lượng gạo của họ không bằng của ta. Lượng xuất khẩu nhiều nhưng kim ngạch lại giảm (6 tháng đầu năm nay, xuất khẩu gạo tăng 2,55% so với cùng kỳ năm 2012, nhưng kim ngạch lại giảm 2,04% do giá giảm).

Việt Nam đã trở thành một "cường quốc" lúa gạo, thế nhưng nông dân Việt Nam - những người đang "một nắng hai sương" trực tiếp làm ra hạt gạo - vẫn là thành phần có thu nhập thấp nhất trong từng lớp, phải sống trong cảnh nghèo khó. Chưa hết, trong khi giá thu mua gạo (từ dân cày) và giá xuất khẩu gạo (của các doanh nghiệp Việt Nam) rất bọt bèo, thì người tiêu dùng trong nước lại phải mua gạo bán sỉ với giá cao gấp rưỡi, thậm chí gấp đôi so với giá xuất khẩu.

Đó là nghịch lý chẳng thể hài lòng!

Có nhiều căn do dẫn đến tình trạng giá gạo xuất khẩu của Việt Nam thấp hơn nhiều so với giá gạo của các nước khác. Thứ nhất là chính sách đầu tư cho tam nông (nông nghiệp, nông thôn và dân cày) của ta còn nhiều bất cập. Phần nhiều những cơ chế, chính sách ưu đãi đầu tư cho phát triển nông nghiệp; thu mua, tạm trữ… sản phẩm thường nghiêng về doanh nghiệp chứ người dân cày ít được hưởng lợi. Đáng trách là doanh nghiệp được hưởng nhiều ưu đãi, nhất là được tương trợ vay vốn không lãi suất để thu mua gạo tạm trữ theo giá sàn (do quốc gia quy định), nhưng thực tiễn họ lại không mua lúa trực tiếp của nông dân mà mua qua doanh nhân trung gian; mức độ đầu tư trở lại vào nông nghiệp chưa tương xứng, nặng về khai khẩn hơn là đầu tư… Đặc biệt, dù đã trở nên cường quốc xuất khẩu gạo từ 30 năm nay, hiện có cả trăm giống lúa đưa vào sinh sản, nhưng đến nay gạo Việt Nam vẫn chưa có thương hiệu. Tình trạng mỗi nơi trồng một giống lúa, doanh gia mua gom, mang về trộn lẫn, xay xát, đánh bóng rồi bán lại cho doanh nghiệp xuất khẩu… diễn ra phổ quát. Đáng nói nữa là Mặc dù chủ trương đầu tư cho nghiên cứu, lai tạo giống lúa, nhất là đầu tư xây dựng thương hiệu cho lúa gạo Việt Nam - sản phẩm trọng điểm quốc gia - được quốc gia quan hoài, chú trọng, với sự dự của nhiều bộ, ngành, tiêu tốn nguồn kinh phí mỗi năm hàng trăm tỷ đồng, nhưng kết quả thu được vẫn chưa thỏa đáng, chưa xứng với đầu tư, đợi mong của quốc gia và nông dân.

Thành ra, việc xóa bỏ những nghịch lý trên đang là đòi hỏi bức thiết, sẽ giúp hạt gạo Việt Nam khẳng định chỗ đứng xứng đáng trên thị trường thế giới, và quan trọng hơn là giúp người nông dân có cuộc sống ổn định, góp phần phát triển giang sơn.