Thứ Sáu, 19 tháng 7, 2013

Đồng giới được sống chung, phụ nữ được mang thai hộ


Một đám cưới tập thể của các cặp đôi đồng tính diễn ra gần đây tại Hà Nội

Ngày 17/7, tại hội thảo góp ý Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và Gia đình do Trung ương Hội Liên hiệp đàn bà Việt Nam tổ chức, rất nhiều quan điểm của chuyên gia cho rằng, việc bổ sung một số chế định mới để kịp thời điều chỉnh những quan hệ hôn nhân và gia đình đã và đang nảy trong thực tiễn là rất cấp thiết.

Cái nhìn nhân văn


Ông Lương Phan Cừ - nguyên Phó chủ nhiệm Ủy ban Các vấn đề từng lớp của Quốc hội cho rằng, nên quy định độ tuổi hôn phối nam nữ như nhau (từ 18 tuổi) để bảo đảm sự đồng bộ, hợp nhất với các quy định của Bộ luật Dân sự, pháp luật về tố tụng dân sự. “Trong các lĩnh vực khác, pháp luật cũng quy định nam giới từ đủ 18 tuổi là đã có đầy đủ năng lực thực hiện các quyền và bổn phận của mình. Do đó, không có lý do gì để nói là trong quan hệ hôn nhân và gia đình, người nam giới ở độ tuổi này là còn non nớt”, ông Cừ góp ý.

Theo Bộ Tư pháp, hiện giờ đang nổi lên vấn đề về quyền thành thân của người đồng tính, vấn đề mang thai hộ, vấn đề ly thân, vấn đề quyền của vợ chồng trong việc xác lập chế độ tài sản ước định nhưng chưa được luật pháp hôn nhân và gia đình ghi nhận. Trên ý kiến này, trong dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hôn nhân và gia đình đã huỷ bỏ khoản 5 Điều 10 của Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 về cấm hôn phối giữa những người cùng giới tính, song song bổ sung quy định về giải quyết hậu quả việc sống chung như vợ chồng giữa những người cùng giới tính; song song cho phép mang thai hộ vì mục đích nhân đạo; nam nữ đủ 18 tuổi được phép kết hôn (trước đây quy định nam 20, nữ đủ 18 tuổi trở lên).

Về vấn đề hôn nhân đồng tính, phương án mà Bộ Tư pháp đưa ra là trong tuổi hiện giờ quốc gia ta chưa nên dấn hôn nhân giữa những người cùng giới tính. Đồng tình phương án này, song GS.TS Lê Thị Quý, Viện trưởng Viện nghiên cứu Giới và phát triển cũng cho rằng, cần phải có các quy định để một mặt góp phần ngăn ngừa thái độ kỳ thị, mặt khác, tạo cơ sở pháp lý để giải quyết các quan hệ về tài sản và con (nếu có) trong trường hợp họ sống chung với nhau như vợ chồng. “Trước mắt, chúng ta “lờ” đi vấn đề hôn nhân đồng tính. Nhưng đến một thời đoạn nào đó cũng phải thừa nhận, bởi đây là câu chuyện có thật trong thực tế”, bà Quý nói và nhận xét thêm, dự thảo quy định cho phép “mang thai hộ vì mục đích nhân đạo” là cái nhìn nhân bản và trực tiếp, không tránh né.

Lo ngại lợi dụng kẽ hở


Đánh giá dự thảo đã bạo dạn đưa ra những quy định có tính nhân văn và tiến bộ, hiệp với xu thế của thế giới, nhưng nhiều đại biểu cũng phân bua sự lo ngại nếu như các điều kiện kèm theo không được xác lập một cách chặt, sẽ trở nên kẽ hở. Chả hạn như vấn đề mang thai hộ, theo ông Lương Phan Cừ, ước vọng được làm cha, làm mẹ là hoài vọng chính đáng và có mang cả nhân tố giới trong đó (kể cả người mang thai hộ và người được làm cha, làm mẹ), nhưng cũng rất dễ bị lạm dụng, thương nghiệp hóa.


Ủng hộ việc cho phép mang thai hộ, bà Vương Thị Hanh, nguyên Phó chủ tịch Hội Liên hiệp đàn bà Việt Nam cũng phân trần: “Nếu các chế độ đối với người mang thai hộ phải được bảo đảm thì vô hình trung việc này chỉ là nhân đạo đối với người cần có con, nhưng lại vô nhân đạo với người mang thai hộ. Thành thử, luật phải được quy định rất cụ thể”.

Minh Thành