Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Giải trình xong phải thực hiện đáng tin cậy.

Trên thực tế có những sự việc mang tính liên đới bổn phận của nhiều cơ quan quản lý (vấn đề đền bù, giải tỏa, tái định cư

Giải trình xong phải thực hiện

Từ chuyện này thì có thể người bị yêu cầu giải trình “mượn cớ” là yêu cầu giải trình đó “không thuộc khuôn khổ nghĩa vụ giải trình” bởi đó là vấn đề “bí ẩn đời tư” hay “bí ẩn kinh doanh”. (Xem thêm bài  “Dân có quyền buộc cán bộ giải trình”  ,  Pháp Luật TP.

TS PHẠM ĐI,   Học viện Chính trị-Hành chính nhà nước Hồ Chí Minh      Cần phải thực hiện lời hứa nếu có   Theo tôi, nếu buộc các cơ quan chức năng giải trình những thắc mắc của dân không thôi là chưa đủ.

Như vậy, với những sự việc cụ thể và có tính chất phức tạp về lợi. Nghị định 90/2013 của Chính phủ về “Quy định bổn phận giải trình của cơ quan nhà nước trong việc thực hành nhiệm vụ quyền hạn được giao” (có hiệu lực ngày 30-9) là một điểm nhấn trong cách tân hành chính. Tuy nhiên, trong việc buộc cán bộ giải trình, tôi thấy có khả năng nảy sinh nhiều cái khó và cơ quan chức năng cần có chỉ dẫn cụ thể để giải quyết vấn đề.

THÚY  (tran_minhthuy2002@. Nếu mọi việc chỉ dừng ở giải trình thì bây giờ cán bộ dưới phường, quận họ vẫn có làm đấy chứ. HCM   ngày 16-8). Nếu không quy định rõ là những lời giải trình và hướng giải quyết đề ra phải thực hiện trong thời kì bao lâu, trường hợp chưa làm được phải công khai giải đáp trên báo chí cho người dân được biết lý do tại sao… thì luật khó đi vào cuộc sống.

, Sẽ khó phân biệt được đâu là “ích liên quan” và “lợi ích liên hệ trực tiếp”.

Lúc đó cái khó của người đề nghị giải trình là thiếu thông báo xác thực (thậm chí hiểu biết về luật pháp) để “đối chất” với người giải trình.

Nó tiếp khẳng định quy chế dân chủ và là điều kiện pháp lý để các tổ chức, cá nhân chủ nghĩa diễn đạt quyền làm chủ. Thứ hai,   khoản 3 Điều 6 cũng quy định “Nội dung đề nghị giải trình thuộc phạm vi nghĩa vụ quản lý của cơ quan được yêu cầu”. Sự lặng im của cán bộ, chính quyền sau giải trình có thể khiến người dân bức xúc, không còn muốn đóng góp ý kiến nữa. ), Lúc đó việc xác định ai phải giải trình sẽ là bài toán khó.

Vấn đề căn cơ là sau giải trình những cán bộ đó có đích thực bắt tay giải quyết những cái mà họ đã hứa (nếu có) hay không. Luật quy định vận hạn tối đa là 90 ngày để đề nghị giải trình nhưng nếu người yêu cầu giải trình “sai địa chỉ” thì chúng ta sẽ giải quyết như thế nào?  Thứ ba,   cơ chế nào để giám sát hoạt động của người giải trình? Đành rằng Điều 17 của nghị định có quy định việc thanh tra, kiểm tra thực hiện nghĩa vụ giải trình thuộc cơ quan quốc gia cấp trên nhưng vấn đề ở chỗ người dân rất cần quá trình giám sát này được tiến hành trước, trong và sau tiến trình giải trình; có như thế mới mang lại tính khách quan, dân chủ, minh bạch…  Thứ tư,   người đề nghị giải trình khó phân biệt được lúc nào yêu cầu của họ “thuộc bí mật đời tư” hay “bí ẩn kinh doanh” (theo quy định tại điểm c và điểm d Điều 5 nghị định).

). Rõ ràng lúc này càng cần phải có cơ chế giám sát (cơ quan quốc gia cấp trên) và cơ chế công khai minh bạch (các văn bản pháp lý liên quan).

Thứ nhất,   theo khoản 2 Điều 6 của nghị định thì “Nội dung đề nghị giải trình liên can trực tiếp đến quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân có đề nghị giải trình”.