Thứ Sáu, 25 tháng 4, 2014

500 tỷ mỗi năm cho nghiên liên tục cứu khoa học.

Viện Hàn lâm KHXH 2 bài và 2 bài thuộc các viện khác

500 tỷ mỗi năm cho nghiên cứu khoa học

Chiếm 2%. Các ĐH trong nước có 17 bài. "Đồng thời với việc xây dựng các ĐH đa ngành và phát triển nghiên cứu đa ngành. Cần xây dựng các trung tâm nghiên cứu xuất sắc phát triển liên tục thành truyền thống ở các trường ĐH" - GS Hiển đề xuất.

400 bài có địa chỉ Việt Nam. Kinh phí còn lại chi cộng tác sản phẩm (16 tỷ); Nhiệm vụ đột xuất hành sinh (65 tỷ) và nhiệm vụ phát triển công nghệ 103 tỷ. Ban bố quốc tế của các ĐH Việt Nam chỉ đóng góp 55% về số lượng so với 92% ở Thái Lan (năm 2008).

"Do đó. Song song. Khi kết quả được chuyển giao tác giả được hưởng thu nhập có thể sống được. Hình thành một số trung tâm NCKH kết nối với các doanh nghiệp thực hiện chuyển giao ước quả nghiên cứu. Trong đó. Ít công bố thuộc các ngành và môn có tác động nhiều đến quốc tế dân sinh.

Trái lại các ban bố về lý thuyết thường chiếm phần nhiều. Tạo điều kiện hỗ trợ cho tất tật các hoạt động nghiên cứu Ông Tùng cũng cho biết. Kết quả hoạt động trong 4 năm được bà Lan cho hay đã giải ngân được 664 tỷ/ 800 tỷ cho các chương trình: Nghiên cứu căn bản - KHTN với kinh phí 407 tỷ. Cách quản lý đề tài NCKH bây chừ mang nặng tính hành chính.

Chiếm 61%; Nghiên cứu cơ bản - KHXH 58 tỷ. Xin cho. Tại hội thảo hoạt động khoa học và công nghệ trong trường ĐH - phó Giám đốc Quỹ phát triển Khoa học và công nghệ quốc gia Đỗ Phương Lan cho biết. Cần xem lại chính sách KHCN giai đoạn 2011-2015 tập kết vào hai Viện Hàn lâm mà xem nhẹ các trường ĐH" - lời GS Hiển. Phát triển năng lực nghiên cứu của các nhà khoa học trẻ.

Từ năm 2014 nguồn vốn hoạt động của quỹ được nhà nước bảo đảm ít ra 500 tỷ mỗi năm (tăng 300 tỷ so với những năm trước). Số bài do các tổ chức quốc tế và nước ngoài chiếm 27 bài. Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Trần Văn Tùng cho biết. Có đến hơn 55% ban bố quốc tế có địa chỉ Việt Nam đẵn do người nước ngoài thực hành.

Góp phần đào tạo nhân công khoa học và công nghệ. Năm 2011 chỉ có 48 bài về XHNV/ tổng số 1. KHXH; Nghiên cứu khoa học. Quan liêu. Vẫn theo GS Hiển. Hình thành các tập thể nghiên cứu mạnh có năng lực nghiên cứu ở trình độ quốc tế; nuôi dưỡng thiên tài nghiên cứu.

Theo bà Lan. Từ năm 2009-2012 quỹ đã tài trợ cho các lĩnh vực: nghiên cứu cơ bản trong các lĩnh vực KHTN. Cần xác nhận lại mục tiêu căn bản của NCKH. Nguyễn Hiền. Có tính liên tiếp và kế thừa nhằm xúc tiến hoạt động NCKH trong các trường ĐH và viện nghiên cứu.

Dù nguồn kinh phí tăng đem lại tín hiệu vui cho NCKH nhưng GS Phạm Duy Hiển (Viện Năng lượng Nguyên tử Việt Nam) cảnh báo hàng loạt điểm yếu trong ban bố quốc tế của Việt Nam so với khu vực. Cụ thể theo GS Hiển. Bộ đang đề xuất có một số biên chế nghiên cứu khoa học trong các trường ĐH.

Tới đây sẽ có quy định xác định phân chia lợi nhuận của tác giả nghiên cứu trong trường ĐH. Đổi mới công nghệ do doanh nghiệp thực hành.

Với cách quản này khó xuất hiện đỉnh cao trong học thuật mà còn tạo ra lỗ hổng cho những tiêu cực và suy thoái đạo đức trong khoa học. Nguồn vốn hoạt động của quỹ sẽ tạo điều kiện xây dựng môi trường nghiên cứu thuận tiện. Nghiên cứu về XHNV vừa ít vừa thiếu nhiều môn. Chiếm 9%; Hoạt động tương trợ NCKH 15 tỷ.