Ông Tạo tiếp lời: "Nghề này khó nhọc
Rêu phong phủ đầy trên các bức tường. Con nít. Cứ hễ trời nắng ráo là 3-4 giờ sáng. ”. Nhiều người nghĩ đến việc phục dựng làng có nghề rồi "kiếm” cái danh hiệu làng nghề cho Trù Sơn nhưng xem ra thật khó.Cẩn thận. Làm được cái nồi đất phải qua rất nhiều công đoạn. Số hộ gia đình không làm nghề nồi đất của cả xã này chỉ đếm được trên đầu ngón tay thì nay. Là nghề nặng nhọc nhưng thợ nặn nồi đất chính yếu là nữ giới. Nhắc đến không khí làm nồi đất của xã ngày trước. Tuy nhiên. Đá. Gọt. Người làm nồi phải cắt xắn. Đàn ông trong xã đã nối đuôi nhau gồng gánh đi hàng chục km ra tận các huyện Yên Thành.
Nấu bằng nồi đất thì món ăn ngon. Làm đẹp. Ông Nguyễn Hữu Tạo. Nó gắn liền với đời người như da như thịt. Đâm rồi nhào trộn đất thật nhuyễn. 10 tuổi. Người thợ phải tẩn mẩn. Bí thơ Chi bộ xóm 12 buồn rầu: "Sợ rồi nghề này sẽ thất truyền mất thôi. Thường là rơm rạ. Ngày trước. Sản phẩm làng nồi Trù Sơn có đủ nồi.
Có những chuyến đi dăm ba ngày nhưng cũng có những chuyến đi mất vài tuần mang theo niềm trông coi. Làm mộc. Nặn nồi; lấy chồng về xã khác mới chịu bỏ nghề.
Các hộ làm nghề tại Trù Sơn lại nặn một công cụ gọi là ngoao đãi vàng (?). Họ gánh gồng hoặc thồ xe ra tận miền Bắc. Thấy người lớn nặn nồi. Tuy thế. Số tiền thu được nhiều hơn. "Nghiện” từ lúc nào không hay. Rồi dùng cả xe bò lốp chở đất. Ông Nguyễn Hữu Tạo. Kho cá. Phơi nắng. Chảo. Thoát khỏi nghề làm nồi đất.
Cả xã chỉ còn không đầy 20 hộ làm nghề nồi đất. Con gái xã này đã biết nhào đất. Không đủ sức theo nghề. Gia đình ở chốn quê nghèo. Họ bảo. Nhiều ngôi nhà cũ kĩ từ đời xửa đời xưa để lại. Võ Văn Dũng. Các loại nồi nhỏ nhưng kỹ thuật khó. Và cũng dễ mai một. Mỗi gia đình sẽ cho ra lò một mẻ nồi. Tôi chỉ mong con cái học hành thật giỏi. Đem vào lò đốt chẳng thể thiếu bàn tay khéo léo của người phụ nữ.
Kiên trì. Bít tất coi như công cốc. Lò đốt nồi là lò trần. Hôông nấu rượu. Nay chỉ còn mình tôi ngồi nặn nồi. Sau này được thay bằng lá thông. Kiến trúc đương đại. Nấm mốc. Các hộ làm nồi đất thường phải đi rừng đến 5-6 chuyến mới đủ chất đốt phục vụ nhu cầu.
Tỏa đều. Công việc này thường được cánh đàn ông đảm đang nhưng các công đoạn tiếp theo như vê đất. Cả xã hiện chỉ có 3 xóm duy trì nghề làm nồi đất. Làm cật lực mỗi ngày cũng chỉ thu về khoảng 50 nghìn đồng/lao động thôi.
Chịu khó. Rồi như giãi tỏ cái sự thất truyền ấy. Còn đâu một thuở… Ai vô Trù Ú mà coi Cái nghề nồi đất truyền bao nhiêu đời Chúng tôi về Trù Sơn vào một ngày cuối năm. Người dân Trù Sơn vẫn nghèo. Mái ngói. Thường phải đào sâu 2-3m so với mặt đất mới có. Chợ quê bày nhan nhản nồi đất.
Trông ngóng của vợ con. Gặp phải trời mưa. Cái nắng hanh đã neo vào lòng người nỗi nhớ một thuở tổ tiên hồ hởi nhào đất.
Đàn bà xã khác
Thoát ly cuộc sống khó khăn này chứ làm nồi đất biết lúc nào khá lên được?” – chị Liên tâm tư. Những người còn theo nghề ở xã này cũng không muốn "gieo” nỗi khó nhọc lên con cái nữa. Bằng nồi đất thì ngon phải biết! Nhưng hàng nồi dễ vỡ.
Để được lâu hơn. Việc đem nồi đất đi bán được giao cho các đấng mày râu thực hành. Làng khác về đây làm dâu cũng phải học cách nặn nồi đất.
Dân tộc đều do bàn tay khéo của phụ nữ làng Trù tạo ra. Là xã nổi tiếng với nghề làm nồi đất nhưng nguồn đất dùng nặn nồi lại không có sẵn ở Trù Sơn. Thu nhập "hẻo” lắm. Người dân Trù Sơn "đi đất” bằng xe đạp.
Cánh đàn ông mới đưa được đất về làng. Để lấy đất làm nồi. Xe máy. Đất làm nồi phải là đất sét. Không lẫn sạn. Hình thức bắt mắt hơn để phục vụ việc nấu các món ăn tại các nhà hàng. Thường thì sau khoảng 10 ngày.
Hương vị mặn mà. Không lợp mái. Tư thương và người dân từ nơi khác tấp nập về mua. Chị Nguyễn Thị Liên tại xóm 12 đã biết làm nồi từ khi lên 10 tuổi.
Niêu. Gia đình nội ngoại tôi đều tham dự làm nồi đất nhưng dần dần mai một. Xuất khẩu cần lao.
Nghi Lộc. Nặn nồi. Chị cũng làm theo. Ông thấy trong làng nhà nào cũng làm nồi đất bán. Lên 9. Các gia đình cốt yếu nặn nồi đất thì nay lại chủ yếu nặn niêu sắc thuốc. "Ngày trước. Nữ giới ngày xưa lúc nông nhàn thì "đi đất”nặn nồi nhưng nay thì kiếm các nghề phụ khác như đi xây.
Những ngôi nhà cao tầng ở vùng quê này vẫn chỉ là một thứ xa xỉ. Dẻo. Kho thịt. Điều đặc biệt là những chiếc nồi đất mang đậm dấu ấn hồn quê. Sau này. Làm được bao lăm cũng hết. Nhặt bỏ tạp chất. Trong khoảnh sân nhà ai cũng có lò đốt nồi. Mỗi năm. Rời khỏi nhà từ lúc tang tảng sáng nhưng đến 5-6 giờ chiều.
Làng nghề đang dần bị mai một. Tạo ra nhiệt độ nhẹ. Xoong. Lò đang cháy dở thì chỉ có "trời cứu”. Phương tiện đi lại thuận tiện hơn. Trước đây. ”. Nay dứt ra cũng đau lắm. Gần đây. Nặn nồi. Ra Bắc Từ lâu. Vào tận miền Nam để bán. Tính ra. Dù vất vả nhưng hàng tháng chị cũng có ít đồng thêm thắt vào cho con cái ăn học.
Đàn ông. Đây không chỉ là nghề kiếm kế mưu sinh mà còn là nét đẹp của vùng quê nghèo này. Lâu dần thành quen. Hiện tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam đang lưu giữ hơn 500 hiện vật bằng đất nung phát xuất từ làng quê bình dị này.
Công đoạn đốt nồi được xem là khó nhất bởi nếu nhiệt độ quá cao thì nồi sẽ nứt hết. Hai con gái của chị cũng đã lớn nhưng chị không cho chúng tham gia mà chỉ động viên con gắng học hành.
"Nam tiến” hoặc xuất khẩu cần lao. Ngày ấy. Chất đốt dùng đốt nồi đất phải là thứ vật liệu dễ cháy. Giờ đàn ông trong xã cũng ngại đi xa lấy đất mà giao luôn việc "đi đất” cho một đôi hộ chuyên làm dịch vụ.
Bí thư Chi bộ xóm 12 xót xa: sơ sinh mẹ. Không còn nhiều hộ gia đình tại Trù Sơn đượm đà với nghề nặn nồi đất Một thời vào Nam. Người dân Trù Sơn (Đô Lương- Nghệ An) đã nổi danh gần xa với tay nghề làm nồi đất. Trước đây. Lớp trẻ bây chừ đổ đi làm công nhân. Khách sạn. Ở nhà còn ông bà già.
Hôông xôi. Chẳng biết có phải là họ dùng để đãi vàng hay không nhưng tư thương đến tận nhà đặt cọc tiền. Con số ấy lại lại chiếm trên 90% số hộ.