Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

Nông dân đối mặt với cùng đọc lại nhiều tai nạn.

Ở nhiều quốc gia, tỷ lệ tử vong do tai nạn lao động trong nông nghiệp cao gấp đôi so với các ngành khác

Nông dân đối mặt với nhiều tai nạn

Kết quả cho thấy có tới suýt soát 500 dân cày từng bị TNTT trong thời kì 1 năm trước khi được hỏi. Hệ thống y tế tuyến xã chưa đáp ứng được nhu cầu điều trị các trường hợp TNTT tại địa phương.

000 ca tử vong do tai nạn cần lao can hệ đến nông nghiệp. Thông tin về gian TNTT đối với người dân còn hạn chế, nguồn cung cấp thông báo về buồng TNTT cho người dân đẵn là ti vi/đài; thông tin tiếp cận sơ lược phát thanh xã và qua cán bộ y tế chiếm tỷ lệ thấp.

Cụ thể: Có tới 46,6% các hộ gia đình không lắp đặt che đậy cho các bộ phận chuyển động có nguy cơ gây tai nạn, 71,9% các hộ gia đình không treo các chỉ dẫn an toàn khi vận hành máy. Trong vòng 20 tháng, tấn sĩ Thúy Quỳnh và các cộng sự tham gia nghiên cứu đã phỏng vấn 6. Tấn sĩ Thúy Quỳnh nhận định là do: “Thực hành an toàn máy của người dân chưa cao”.

Nhìn chung thực trạng về nhân lực, thuốc và các trang thiết bị tại các trạm y tế vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu về mặt kỹ năng và chuyên môn cũng như số lượng nhân viên y tế. Lê An. 000 người tử vong, khoảng 170. Nông dân trồng chè, lúa, cà, phê ít người nghĩ mình có thể bị tai nạn lao động.

2010 tại 4 tỉnh được chọn có chủ đích, đó là: thanh bình, Đồng Tháp (trọng điểm về lúa gạo), Thái Nguyên (trọng tâm trồng chè) và Đăk Lăk (trọng tâm trồng cà phê). Số ngày nghỉ làm nhàng nhàng của các nạn nhân là 16,3 ngày. Vẫn còn chủ quan Ngoài các yếu tố “nhỏ” mà ND ai cũng mắc phải thì còn khá nhiều tai nạn can dự tới máy nông nghiệp.

275 hộ dân cày (ND) bằng bộ câu hỏi thiết kế sẵn; 50 cuộc phỏng vấn sâu được tiến hành đối với các đối tượng như cán bộ đảm đương y tế lao động tuyến tỉnh, huyện và xã; cán bộ thanh tra và an toàn cần lao tuyến huyện; cán bộ hội ND tuyến huyện và xã; chủ tịch hoặc phó chủ tịch xã; và người nhà của nạn nhân bị TNTT trong cần lao nông nghiệp.

Khoảng 3/4¾ số người bị TNTT là thu nhập chính của gia đình và TNTT đã có ảnh hưởng lớn và vừa tới kinh tế của 70% gia đình ND.

Cùng với hệ thống quản lý, chính sách còn chung chung, chưa có chính sách cụ thể về phòng chống TNTT trong nông nghiệp là một căn nguyên và đồng thời cũng là rào cản lớn cho chương trình phòng TNTT. Vật sắc nhọn, ngộ độc, ngã, say nắng/nóng, động vật cắn/tấn công, tai nạn liên lạc và mang vác nặng là các căn do gây TNTT cho người ND, trong đó vật sắc nhọn là căn nguyên hàng đầu gây TNTT ở cả 4 tỉnh.

Thái Nguyên là tỉnh có tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn cao nhất (47,8%), tiếp đến là Đăk Lăk (36,1%), thăng bình (10,3%) và thấp nhất là Đồng Tháp (7,8%). Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về dùng máy nông nghiệp còn rất thấp (25,5%). Bảo hộ cần lao đủ và đúng cũng là một vấn đề tồn tại ở các tỉnh nghiên cứu: 23,4% ND không được trang bị bảo hộ cần lao đủ khi phun thuốc; 28% trong số đó cho rằng bảo hộ cần lao làm vướng víu và cản ngăn các hoạt động lao động.

65,7% hộ gia đình không được hướng dẫn về an toàn sử dụng hóa chất bảo vệ thực vật. Theo số liệu thống kê của Tổ chức Y tế thế giới, hàng năm trên toàn thế giới có khoảng 2- 5 triệu người nhiễm độc hóa chất BVTV với khoảng 40. 2009 đến tháng 12. Trong khi ND còn chủ quan thì việc hỗ trợ, giúp ND kiểm soát tai nạn cũng còn rất yếu. Đa phần đều gặp nạn Nghiên cứu thực trạng tai nạn thương tích (TNTT) trong nông nghiệp tại Việt Nam được tiến sĩ Thúy Quỳnh và cộng sự tiến hành trong thời kì từ tháng 5.

Tỷ lệ hộ gia đình được tập huấn về an toàn hóa chất còn chưa cao tại 4 tỉnh nghiên cứu (42,6% tại Đăk Lăk; khoảng 64% tại Thái Nguyên và Đồng Tháp; 76% tại thăng bình).