Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Chuyện của NSƯT Mạnh Dung

 Cải lương là niềm ham cả đời nhưng những bộ phim cũng cho tôi không ít. Điều lớn nhất tôi đạt được chính là tình ái thương của khán giả. Người ta thương một ông già Nam Bộ, tuy nhom nhem nhưng quắc thước, nhỏ bé thôi mà cứng cỏi, can tràng. Cho đến hiện nay khi tôi nói tôi chính gốc miền Bắc đây, nhiều người vẫn cứ lắc đầu, cho là tôi nói xạo. 

1. Cha làm nghề soát vé của chuyến tàu Bắc – Nam, nên cả gia đình cũng phải bồng bế nhau trên những toa tàu. Tôi sơ sinh mẹ, nhau vừa chôn xuống còn nóng sốt, tàu đã rời đi. tun hút cánh đồng, tun hút rừng cây, tôi thường ngồi bám vào ô cửa kiếng tàu, ngoái về phía sau, để ngờ ngạc nhìn mọi thứ trôi vào tun hút. Tờ giấy khai sinh, ô quê quán còn để trống, bởi ga nào cũng là đất, là quê.Những đêm khuya khoắt, tàu vào ga tỉnh lẻ, giấc ngủ trùng triềng trong tiếng rao gấp rút, đèn neon xanh mét bên kia cửa kiếng, nhoang nhoáng vào đêm. Ngày ấy, tàu dừng ga là lại đòi mẹ ôm xuống đất, để chân trần chạy nhảy cùng các anh, rồi bắt con chuồn chuồn, ngắt cọng lau… Tàu kéo còi lại phải nuối tiếc leo lên toa, rồi bám ô cửa kiếng nhìn mọi thứ trôi tun hút sau lưng.

Lên 7 tuổi, tôi được thỏa thèm khát chạm đất. Thời ấy Nhật Pháp bạo động, cả gia đình dắt díu nhau chạy loạn, rồi dạt về vùng rừng núi Gia Viễn, Ninh Bình. Thời ấy khó lắm, tàu bay gầm rú trên đầu, dưới chân rắn, vắt chờ chực cắn người, hút máu. trẻ nít mà, dù ở trong tình cảnh nào, cứ được chơi là đã đủ vui. Nhưng tôi không được chơi nhiều, bởi dân làng ít, bạn đồng lứa chẳng có ai. Núi rừng hoang sơ quá, mỗi khi một mình tôi hay hát để tự trấn an.

Mà tôi mê hát lắm, tôi theo cha gánh củi, nghe tiếng hát chông chênh trên sườn núi, về bập bẹ hát theo. Tôi giúp mẹ thổi cơm, thấy lửa bập bùng cũng nổi hứng nhẩn nha vài câu hát cũ. Rồi hát mọi lúc, mọi nơi như một lề thói. 5 năm sau, giặc càn vào rừng, cha bỏ núi, tìm đường về đồng bằng. Những tháng ngày ấy, không nơi nào tạm cư lại quá lâu. Khi thì Hà Nội, lúc lại dạt về quê cha ở Phủ Lý, Hà Nam , khói cơm nhà lẩn khuất ở những ngôi làng, vùng đất chưa kịp quen tên.

Chắc tại tôi lớn lên trên những chuyến tàu ngược xuôi, nên vận số lang bạt kì hồ kỳ hồ cũng cứ thế lẽo đẽo theo tôi. Ngay cả cái nghề tôi chọn cũng phải rày đây mai đó, dầu dãi gió sương. Phải vài năm sau cả gia đình mới “cắm dùi” được ở Hà Nội. Tôi theo cha, học đủ thứ nghề, làm đủ thứ việc. Rồi vừa làm vừa hát cho vơi nhọc nhằn. Có lần, tôi đi đóng đinh tán cho người ta, mang theo lề thói cũ hát theo nhịp… búa.

ngẫu nhiên, ông bầu Đoàn cải lương Chuông Vàng đi ngang qua, thấy tôi hát ngồ ngộ liền đặt vấn đề, rồi từ đó tôi được đi học lớp diễn viên sàn diễn trong trường của Sở Văn hóa Hà Nội. Gian khổ quen rồi, vào trường lại thấy sướng, được nuôi cơm ba bữa, lại được các thầy dạy hát, dạy trình diễn và được cái lớn nhất trong đời, là duyên số với vợ tôi – nghệ sĩ Thanh Dậu.

 2. kĩ càng các ngón nghề, tôi đi hát. Tuy được làm kép chính, nhưng không hiểu sao, trong lòng vẫn thấy thiếu thiếu một điều gì đó. Cái nôi của nả lương bắt nguồn từ Nam Bộ, tôi là người Bắc nên khi ngân nga, “xuống xề” một câu vọng cổ, tôi vẫn thấy chưa hay, chưa thỏa mãn sự mong mỏi được khám phá hết khả năng của bản thân. May mắn sao, tuổi đó có một số nghệ sĩ miền Nam ra Bắc tụ hội, rồi hình thành nên Đoàn cải lương Nam Bộ. Lúc ấy, không hiểu sao, lòng tôi nôn nao lạ kỳ.

Tôi muốn hát cải lương như một người Nam Bộ. Tôi bàn với vợ, rồi hai vợ chồng cùng xin được về đây. Tôi thường nói với vợ, cứ ham là sẽ làm được. Tôi núm trò chuyện rất nhiều với anh em nghệ sĩ là người miền Nam trong đoàn, học cách họ nói, học cách họ ca. Phải nói bằng một chất giọng khác, hát bằng một kiểu cách khác, thật khó khôn xiết. Nhưng rồi, mọi việc cũng dần ổn thỏa.

Đã chọn là nghệ sĩ, phải ưng ý một thế cục rày đây mai đó. Tôi từ nhỏ đã quen với việc chưa kịp quyến luyến tình người, tình đất đã phải rời đi, chỉ thương cho vợ tôi… Dù bà ấy cũng là đào chính, cũng một lòng ham, nhưng nhìn vợ bụng mang dạ chửa, cùng theo tôi dãi nắng dầm sương, xót xa không biết để đâu cho hết. Rồi con gái ra đời, hai vợ chồng tôi vẫn tiếp chuyện những chuỗi ngày rong ruổi. Hễ vợ diễn thì chồng ẵm con, rồi đến lượt chồng ra sàn diễn, vợ phải lui vào bồng bế dỗ ngon dỗ ngọt. Nhiều khi vợ tập tuồng mệt lả, trong giấc ngủ chấp chới, còn giật thột lo con khóc. Thương vợ, và cũng sợ con khóc ảnh hưởng đến những phút ngơi nghỉ ít oi của anh em, tôi ôm con ra gốc đa, gốc mít. Dỗ con ngủ mà nghèn nghẹn lời ru.

Cũng may, đó là cái thời mà người ta sống bằng lý tưởng. Thứ lý tưởng mạnh mẽ vô hạn khiến tiếng hát vút lên trên lửa đạn, đói nghèo có là gì, thiếu thốn chẳng hề chi. Củ khoai bẻ nửa cũng đủ sức diễn trọn một lớp tuồng, tàu bay gào thét trên đầu không làm run một hơi vọng cổ. Chúng tôi đã sang một thời kỳ hoa lửa.

Năm 1975, tôi và vợ đi cùng Đoàn cải lương Nam Bộ về Sài Gòn. Sau đó 1 năm, lại phải trở ra Hà Nội do thủ đô đang xây dựng hí viện cải lương, và rất cần anh em nghệ sĩ. Người xưa nói chí phải, cái nghề là cái nghiệp. Nhiều khi suy ngẫm, có khi, bởi mình sinh ra trên những chuyến tàu, nên thế cục cứ xuôi ngược, đi về mải miết.

Cũng chẳng làm sao, bởi con tàu phải chuyển bánh mới là sống đời của nó. Vào khoảng năm 1978 - 1979, Trường Đại học sàn diễn Điện ảnh Hà Nội được thành lập, tôi cùng vợ được vinh hạnh là lớp học sinh trước nhất của ngôi trường này. Năm 1984, hai vợ chồng lại được điều vào dạy tại thị thành Hồ Chí Minh. Tôi lại phải “rời ga” lần nữa, nhưng đợt đi này rốt cuộc cũng đã được dừng chân.

 3. Tôi vào miền Nam không ít lần, và khi đã định cư lại thấy lòng gắn kết nhiều hơn. Đặc sản vô giá của nơi đây chính là con người. Cái tình, cái tính của người miền Nam chất phác quá. Và khoáng đạt, và thật đến nao lòng. Chính vì yêu quá mảnh đất này, nên khi đóng phim tôi, vào vai người Nam Bộ mà người ta vẫn thường nói đùa, “còn giống hơn người Nam Bộ”.

Cũng bởi, tính tôi đã quyết định làm, thì phải làm cho đến nơi đến chốn. Tôi không vật nài điều gì, chỉ sợ mình diễn chưa hay, mình làm chưa tới, chứ bao gieo neo trong nghề đã trải, còn ngại chi mấy điều khổ khó. Có lần, tôi về Bình Thuận đóng phim, vai một lão ngư chuyên làm nước mắm. Để nhập tâm, việc gì bà con đang làm là tôi cũng học theo.

Tôi cứ sang thùng này rải muối, qua thùng nọ xếp cá, chạy tới chạy lui. Dân quanh vùng cứ kháo, không biết ông này là diễn viên hay nhà làm mắm thứ thiệt mà cái gì cũng biết. Tôi cứ nhủ thầm, coi vậy là mình hóa thân được rồi, thiên nhiên thấy vui. Tính tôi hay dễ vui vì những điều nho nhỏ.

Vai diễn ông Ba bắt rắn trong bộ phim Đất Phương Nam đã khiến tôi định hình trong lòng khán giả tỉ một ông già Nam Bộ tiêu biểu. Là ông Ba lành như hòn đất, cọng rau nhưng lại sẵn sàng dang tay chở che những mảnh đời xấu số. Tôi cảm được cái tình trong từng hành động, cử chỉ của ông Ba và cứ vậy mà diễn, như ông Ba là chính thế cục của mình.

Cải lương là niềm ham cả đời nhưng những bộ phim cũng cho tôi không ít. Điều lớn nhất tôi đạt được chính là tình ái thương của khán giả. Người ta thương một ông già Nam Bộ, tuy nhom nhem nhưng quắc thước, nhỏ bé thôi mà cứng cỏi, can tràng. Cho đến hiện nay khi tôi nói tôi chính gốc miền Bắc đây, nhiều người vẫn cứ lắc đầu, cho là tôi nói xạo.

 4. Ở cái tuổi “thất thập kim cổ hy” tôi tự biết mình đã già, mà ai già chắc hẳn cũng hay buồn, hay nhớ về những ngày xưa. Được cái, tôi chưa bao giờ ân hận vì con đường mình đã đi, cái nghiệp mà mình tuyển lựa. Chỉ hay thấy bi cảm cho vợ tôi, một bên nhọc nhằn con cái, một bên đeo đuổi công danh, rồi lại phải hối hả vun vén, chưa bao giờ để tôi phật ý điều chi. Mà nói thương thôi, thì chưa có đủ, phải gọi là tôi cảm kích vợ tôi. Tôi suy ngẫm, người ta gọi vợ, gọi chồng là “người bạn đời” quả không còn gì đúng hơn.

Họ cưới nhau vì cái tình, mà để sống được với nhau thì còn cái nghĩa. “Muối mặn gừng cay” là thế. Tôi yếu rồi, cũng đã về hưu, may còn có bà để coi sóc nhau sáng tối. Giờ tôi đi đóng phim loáng thoáng, có chuyến nào đi dài ngày, thấy bà ấy lo là tôi lại tội. Bà gói ghém nào áo lạnh, thuốc ho, sợ trái gió trở trời, sợ mưa, sợ nắng, cứ nghĩ đến điều gì có thể ảnh hưởng tới tôi là bà lại lo thom thóp. bởi thế tôi hay nói, nếu mà nhắc về tôi thì phải kể luôn cả vợ tôi, vì thế cục, sự nghiệp của tôi gắn liền với bà ấy. Sướng vui cùng cam, gian khổ cùng gánh chịu. Nói dại, thà cho tôi đi trước, chứ bà ấy có ốm đau gì chắc tôi cũng không sống nổi.

thiên nhiên tôi lại nhớ về những chuyến tàu, nhớ về những ngày tôi bám ô cửa kiếng, ngoái về phía sau đến trẹo cổ, tròn xoay ánh nhìn tun hút. Lại tự cười, đã từ rất lâu tôi không còn khẩn thiết ngoái về phía sau nữa, bởi tôi đã nhận ra rằng, bà ấy chính là ga dừng đỗ rốt cuộc của thế cục tôi